Ngành công nghiệp hỗ trợ: Rào cản bứt phá từ thiếu nhân lực tay nghề cao
Với sự quan tâm và đẩy mạnh hỗ trợ về cơ chế, chính sách cũng như sự chủ động nắm bắt cơ hội của cộng đồng doanh nghiệp, địa phương, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đã có những bước phát triển rõ nét.
Ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đang có những bước phát triển rõ nét. Tuy nhiên, nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao còn thiếu đang là trở ngại lớn của nhiều doanh nghiệp ngành này.
Đầu tư vào nguồn nhân lực là một yếu tố phát triển bền vững đối với ngành công nghiệp hỗ trợ, đặc biệt khi doanh nghiệp đang dần chuyển từ thâm dụng lao động sang thâm dụng công nghệ. Hiện nay, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam được các chuyên gia kinh tế đánh giá, đang đứng trước cơ hội phát triển chưa từng có.
Không chỉ phát triển về số lượng, nhiều doanh nghiệp còn nâng tầm công nghệ; khẳng định năng lực hội nhập ngày càng mạnh mẽ, tuy nhiên thiếu nhân lực tay nghề cao vẫn đang là rào cản để ngành công nghiệp hỗ trợ bứt phá.
Nhân lực được đào tạo sát với nhu cầu thực tiễn, công nghiệp hỗ trợ mới bứt phá (Ảnh minh họa: ITN)
Theo Bộ Công Thương, Việt Nam hiện có khoảng 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, nhưng chỉ chưa tới 300 doanh nghiệp tham gia được vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia. Một trong những nguyên nhân quan trọng là thiếu lao động kỹ thuật cao.
Trong lĩnh vực cơ khí chính xác, linh kiện ô tô, điện tử, nhu cầu kỹ sư, kỹ thuật viên có tay nghề tăng đều hằng năm từ 8-10%. Tuy nhiên, số lượng nhân lực đáp ứng được yêu cầu thực tế chỉ đạt khoảng 40-50%. Điều này buộc nhiều doanh nghiệp phải tự đào tạo lại hoặc thuê chuyên gia nước ngoài với chi phí cao.
“Hiện nay số lượng lao động có tay nghề cao trong các ngành công nghiệp hỗ trợ hiện rất hạn chế so với nhu cầu của ngành. Việt Nam đang trong giai đoạn dân số vàng với khoảng 54% dân số ở độ tuổi lao động, trong đó lực lượng lao động rất trẻ và dồi dào”, ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm hỗ trợ phát triển Công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) chia sẻ.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực có trình độ kỹ thuật, có tay nghề cao hiện nay còn hạn chế cả về số lượng và trình độ, là trở ngại lớn của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong ngành như cơ khí, chế biến chế tạo, thiết bị linh phụ kiện điện, điện tử..., đặc biệt trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh khi tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, cũng như nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị.
Đồng thuận, bà Tô Thị Hồng Lĩnh, Trưởng phòng Kinh doanh của Công ty Cổ phần Đầu tư thương mại công nghiệp Hà Nội cho hay, hiện các sinh viên tốt nghiệp ngành cơ khí khi vào làm thường chưa quen với máy móc, công nghệ cao.
Doanh nghiệp phải mất ít nhất 6 tháng để đào tạo lại để có nhân lực đáp ứng được yêu cầu công việc của chính công ty, việc đào tạo lại làm chậm tiến độ sản xuất và tốn kém chi phí.
Tương tự, ông Lê Quý Thành, Giám đốc Nhà máy TOMECO An Khang cũng cho biết, hiện vẫn còn tình trạng chênh lệch giữa khoa học công nghệ thực tế doanh nghiệp đang sử dụng với cập nhật chương trình đào tạo tại các nhà trường ngành công nghiệp hỗ trợ.
“Các nhân sự làm việc trong ngành này ngoài kiến thức chuyên môn thì cũng rất cần những am hiểu về hệ thống, về quy trình, tiêu chuẩn cao như ISO 9001, ISO 14001, ISO 45001… hay cách thức vận hành máy móc, thiết bị hiện đại. Những nguồn nhân sự này hiện nay rất khó tìm được trong các trường đại học hiện nay”, ông Thành thừa nhận.
PGS.TS. Nguyễn Minh Đức, chuyên gia về đào tạo nhân lực công nghiệp nhận định, hiện các nhà trường vẫn đi chậm một nhịp so với doanh nghiệp. Điều này tạo ra khoảng cách lớn, khiến cung - cầu nhân lực không gặp nhau.
Bên cạnh đó, sự hiện diện của các tập đoàn lớn như Samsung, Toyota, Canon, LG… đã tạo ra sức ép lớn đối với ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước. Các “ông lớn” này yêu cầu nhà cung ứng phải đạt chuẩn quốc tế, không chỉ về sản phẩm mà cả về quy trình và nhân lực.
Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp Việt chưa thể đáp ứng vì thiếu đội ngũ kỹ sư giỏi ngoại ngữ, am hiểu công nghệ và có khả năng sáng tạo. Điều này khiến công nghiệp hỗ trợ trong nước dù có tiềm năng nhưng vẫn đang đứng ngoài nhiều chuỗi cung ứng quan trọng, trong khi ngành này được coi là "xương sống" của ngành công nghiệp chế biến chế tạo và là nhân tố then chốt để Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Về điều này, ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) phân tích, hiện nay Việt Nam có khoảng 1.700 doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, chiếm khoảng 40% tổng số doanh nghiệp toàn ngành.
Tuy nhiên, đi sâu vào cơ cấu ngành hàng, tỉ lệ nội địa hóa ở nhiều lĩnh vực vẫn còn khiêm tốn: Dệt may - da giày đạt khoảng 45-50%, cơ khí chế tạo 15-20%, lắp ráp ô tô chỉ 5-20%. Trong khi đó, khoảng 6.000 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước mới chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu linh kiện, phụ tùng phục vụ sản xuất.
Tính riêng nhóm doanh nghiệp nội địa, tỉ lệ nội địa hóa chỉ đạt khoảng 15,7%. Những con số này cho thấy doanh nghiệp Việt vẫn còn đứng ngoài "sân chơi lớn" và cần được hỗ trợ mạnh mẽ về công nghệ, quản trị, tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như cơ hội kết nối để tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chia sẻ từ thực tiễn hỗ trợ doanh nghiệp, ông Phạm Hải Phong, Chánh Văn phòng Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), cho biết, việc tham gia vào chuỗi cung ứng, đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo là một hành trình không dễ dàng. Các doanh nghiệp cần có cam kết lâu dài, bố trí nguồn lực và con người một cách bài bản để cải tiến và hội nhập.
Ông nêu một minh chứng điển hình về một doanh nghiệp thành viên VASI, ban đầu chỉ tham gia triển lãm tại Đức với tư cách quan sát viên. Sau khi nhận thấy tiềm năng lớn, doanh nghiệp này đã tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, tham gia các chương trình tư vấn - đào tạo tại chỗ và từng bước đạt được năng lực cung ứng cho các tập đoàn lớn.
Đến năm 2023, doanh nghiệp đã mở rộng thêm 2 nhà máy, tăng gấp 3 lần sản lượng. Đây là minh chứng rõ ràng rằng để "chen chân" được vào chuỗi cung ứng toàn cầu, doanh nghiệp cần 9-10 năm đầu tư bền bỉ về công nghệ và đặc biệt là con người – một đội ngũ có tay nghề chất lượng cao.
Vì thế, theo các chuyên gia, lời giải cho bài toán nhân lực công nghiệp hỗ trợ chính là ở việc xây dựng cơ chế liên kết chặt chẽ giữa nhà trường - doanh nghiệp - nhà nước.
“Doanh nghiệp cần người làm được việc, còn nhà trường cần đầu ra. Hai bên phải coi nhau như đối tác chiến lược, cùng đầu tư lâu dài. Trong bối cảnh chuyển đổi xanh và số hóa sản xuất, yêu cầu đối với nhân lực công nghiệp hỗ trợ ngày càng cao. Không chỉ thành thạo kỹ thuật, nhân lực ngành này còn phải am hiểu công nghệ số, tự động hóa, AI và đặc biệt là các tiêu chuẩn sản xuất xanh”, ông Nguyễn Hoàng Long, đại diện VASI TPHCM nhấn mạnh.
Để khắc phục tình trạng này, một số trường đại học tăng cường triển khai chương trình đào tạo nhân lực gắn với doanh nghiệp FDI. Theo PGS.TS. Nguyễn Minh Đức, chỉ khi nhân lực được đào tạo sát với nhu cầu thực tiễn, công nghiệp hỗ trợ Việt Nam mới bứt phá, trở thành động lực quan trọng trong hành trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.