Từ bảo tồn đến phát triển: Đắk Lắk đưa cồng chiêng trở thành thương hiệu văn hóa - du lịch
Hai mươi năm sau khi Không gian Văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên được UNESCO vinh danh, Đắk Lắk tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Từ buôn làng đến trường học, từ nghệ nhân lớn tuổi đến thế hệ trẻ, tiếng chiêng vẫn vang vọng, trở thành nguồn lực văn hóa - du lịch quan trọng hướng đến phát triển bền vững.

Một buổi diễn tấu cồng chiêng của các nghệ nhân Đội chiêng buôn Kplang, xã Tân Tiến, Đắk Lắk. Ảnh: NG
Bền bỉ bảo tồn và tái sinh di sản trong cộng đồng
Không gian Văn hóa Cồng chiêng được xem là “tiếng nói của đại ngàn”, phản ánh sự hài hòa giữa con người, thiên nhiên và tinh thần gắn kết cộng đồng. Năm 2005, UNESCO ghi danh di sản này đã mở ra một dấu mốc lớn, đồng thời đặt lên vai Đắk Lắk trách nhiệm bảo tồn một kho tàng văn hóa đại diện của nhân loại.
Hai thập kỷ qua, Đắk Lắk đã triển khai đồng bộ các chủ trương, chính sách bảo tồn di sản với quyết tâm từ cấp ủy đến cộng đồng. Tỉnh đã ban hành 5 nghị quyết chuyên đề cùng nhiều kế hoạch, đề án nhằm hồi sinh tiếng chiêng trong đời sống. Từ đó, cồng chiêng không chỉ được gìn giữ như một hiện vật văn hóa mà thực sự sống lại trong không gian buôn làng.

Các lớp học truyền dạy đánh cồng chiêng thu hút thế hệ trẻ, góp phần quan trọng duy trì đội ngũ nghệ nhân kế cận tại buôn làng Đắk Lắk. Ảnh: NG
Phong trào bảo tồn tại cơ sở diễn ra mạnh mẽ. Đến năm 2024, toàn tỉnh sở hữu hơn 1.600 bộ chiêng và 481 đội chiêng, đội văn nghệ dân gian hoạt động thường xuyên. Nhiều nghi lễ truyền thống như Lễ cúng bến nước, Lễ cầu mưa, Lễ mừng sức khỏe hay Lễ hội đua voi Buôn Đôn được khôi phục đều đặn, tạo nên không gian diễn xướng sống động và nuôi dưỡng bản sắc.
Công tác truyền dạy cũng đạt nhiều kết quả với hàng chục lớp học thu hút hơn 6.000 học viên. Tỉnh đã vinh danh 55 nghệ nhân ưu tú và hiện có hơn 1.000 nghệ nhân trẻ tiếp nối, góp phần quan trọng gìn giữ tri thức bản địa.
Không dừng lại ở khôi phục, Đắk Lắk còn tiên phong đưa di sản vào phát triển du lịch. Tỉnh đã xây dựng 5 buôn du lịch cộng đồng tiêu biểu như Buôn Akô Dhông, Buôn Trí, Buôn Tuôr… tạo sinh kế cho hàng trăm hộ dân thông qua homestay, ẩm thực, dệt thổ cẩm, trình diễn cồng chiêng.
Du lịch buôn làng đã góp phần tái sinh văn hóa truyền thống khi cộng đồng tự phục dựng nhà dài, thành lập đội chiêng trẻ và xây dựng các sản phẩm du lịch đặc sắc.
Song song đó, ngành giáo dục đưa di sản vào trường học, tích hợp trong chương trình địa phương và tổ chức ngoại khóa, giúp học sinh tiếp cận tự nhiên, tạo nền tảng để thế hệ trẻ yêu và gắn bó với di sản.

Sau 20 năm được UNESCO vinh danh, Đắk Lắk duy trì hơn 480 đội chiêng, khẳng định vai trò trung tâm trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản cồng chiêng Tây Nguyên. Ảnh: NSNA Quang Khải
Thách thức và định hướng chiến lược để cồng chiêng “sống cùng cộng đồng”
Dù đạt nhiều thành tựu nổi bật, công tác bảo tồn cồng chiêng Đắk Lắk vẫn đối mặt với những thách thức lớn trong bối cảnh đô thị hóa, thay đổi tín ngưỡng và sự tác động mạnh mẽ của văn hóa đại chúng.
Trước hết, giới trẻ ngày càng xa rời di sản truyền thống khi chịu ảnh hưởng từ âm nhạc hiện đại, mạng xã hội hay trò chơi điện tử. Tiếng chiêng đôi khi bị xem là “cũ kỹ”, dẫn đến nguy cơ đứt gãy văn hóa giữa các thế hệ.
Không gian thực hành di sản cũng bị thu hẹp khi các nghi lễ truyền thống thưa dần, nhường chỗ cho những hoạt động mang tính trình diễn hoặc lễ hội do địa phương tổ chức.

Các nghi lễ truyền thống như Lễ cúng bến nước, Lễ cầu mưa, cầu mùa... được khôi phục, tạo môi trường sống động để cồng chiêng vang vọng, nuôi dưỡng bản sắc văn hóa cộng đồng. Ảnh: NG
Nguồn lực nghệ nhân - những “báu vật nhân văn sống” đang suy giảm nhanh chóng. Nhiều nghệ nhân lớn tuổi am hiểu chỉnh chiêng, chế tác nhạc cụ hay sử thi đã mất đi mà không kịp truyền dạy. Chính sách hỗ trợ nghệ nhân chưa thật sự đủ mạnh để động viên họ gắn bó lâu dài.
Trong khi đó, sản phẩm du lịch còn thiếu chiều sâu, đôi lúc mang tính sân khấu hóa, chưa khai thác trọn vẹn giá trị di sản. Mức đầu tư cho các buôn du lịch cộng đồng còn hạn chế, khiến việc hình thành chuỗi giá trị chưa thật sự bền vững.
Để đáp ứng bài toán vừa “giữ di sản”, vừa “tạo sinh kế”, tại Hội nghị tổng kết 20 năm thực hiện công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Cồng chiêng (2005 - 2025), định hướng đến năm 2030, Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Đắk Lắk đã đề xuất nhiều giải pháp chiến lược đến năm 2030.
Trong đó, trọng tâm là chuẩn hóa sản phẩm du lịch văn hóa, xây dựng trải nghiệm bản sắc như tour “Một ngày làm nghệ nhân”, kết hợp diễn tấu cồng chiêng, dệt thổ cẩm, làm rượu cần. Cùng với đó, kiến nghị nâng mức hỗ trợ đầu tư cho buôn du lịch cộng đồng, duy trì các câu lạc bộ âm nhạc truyền thống như một tiêu chí đánh giá thôn, buôn văn hóa.

Việc hoàn thiện chính sách đãi ngộ, hỗ trợ nghệ nhân là giải pháp chiến lược nhằm giữ chân và động viên những người am hiểu tri thức bản địa gắn bó lâu dài với di sản văn hóa cồng chiêng. Ảnh: TA
Bên cạnh phát triển du lịch, Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch Đắk Lắk đề xuất hoàn thiện chính sách đãi ngộ nghệ nhân với chế độ phụ cấp, chăm sóc sức khỏe; đồng thời nhân rộng mô hình “Lớp học Cồng chiêng cộng đồng” kết nối nghệ nhân, nhà trường, học sinh.
Một trong những định hướng quan trọng là đẩy nhanh số hóa di sản: Lưu trữ âm thanh, hình ảnh 3D các bộ chiêng cổ, tri thức chế tác, diễn tấu; ứng dụng VR/AR để tái hiện không gian lễ hội; xây dựng các nền tảng quảng bá di sản trên môi trường số.
Hai mươi năm qua, tiếng chiêng Đắk Lắk vẫn vang vọng giữa đại ngàn như nhịp đập của bản sắc và khát vọng phát triển. Bước sang giai đoạn mới, di sản không chỉ cần được bảo tồn mà phải thực sự “sống cùng” cộng đồng, trở thành nguồn lực kinh tế - văn hóa vững chắc. Khi thế hệ trẻ hiểu, yêu và thực hành di sản; khi cồng chiêng trở thành sản phẩm du lịch bền vững; khi nghệ nhân được trân trọng đúng tầm, đó sẽ là nền tảng để tiếng chiêng tiếp tục vang lên trong hiện tại và tương lai Tây Nguyên.






