A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Chính sách phát triển vùng: Nền tảng cho tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên mới​

Chính sách phát triển vùng: Nền tảng cho tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên mới

Trước những biến đổi nhanh chóng của kinh tế thế giới, xu thế hội nhập quốc tế, chuyển đổi số và biến đổi khí hậu, phát triển vùng ở Việt Nam không chỉ là yêu cầu tất yếu mà còn trở thành một định hướng chiến lược. Đây là chìa khóa để khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế từng khu vực, đồng thời gắn kết phát triển chung, hướng tới mục tiêu tăng trưởng bền vững của đất nước.

*Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực

Theo Tiến sĩ Lê Văn Hùng, Phó Viện trưởng Viện Địa lý nhân văn và Phát triển bền vững (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), tình hình kinh tế toàn cầu đang có nhiều biến động sâu rộng. Cuộc cách mạng công nghệ, sự dịch chuyển của chuỗi giá trị sản xuất, cạnh tranh thương mại, chuyển đổi xanh và chuyển đổi số đã tạo ra những cơ hội mới, đồng thời đặt ra những thách thức không nhỏ cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Để thích ứng, việc hoạch định chính sách phát triển vùng được xem như giải pháp trọng yếu, nhằm tạo động lực tăng trưởng và khắc phục tình trạng phát triển thiếu cân đối giữa các khu vực.

Trong những thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả tích cực trong phát triển vùng. Một số vùng kinh tế - xã hội đã hình thành trung tâm sản xuất tập trung, chuyên môn hóa theo hướng hiện đại. Năng suất lao động và thu nhập bình quân đầu người ở nhiều khu vực có sự cải thiện đáng kể. Đặc biệt, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng trung du và miền núi phía Bắc đã có những chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế, hạ tầng và đời sống dân cư.

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, vẫn còn không ít hạn chế. Sự phát triển giữa các vùng chưa đồng đều, khoảng cách giàu nghèo còn lớn, nhất là giữa đô thị và nông thôn, giữa các vùng phát triển nhanh và những khu vực còn khó khăn. Nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được phân bổ hợp lý, cơ sở hạ tầng còn thiếu đồng bộ. Ngoài ra, gắn kết giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến những tác động tiêu cực về sinh thái, tài nguyên và chất lượng sống.

Để khắc phục hạn chế này, Việt Nam đã và đang có những thay đổi quan trọng về chính sách. Trong đó, việc tinh gọn bộ máy quản lý theo mô hình chính quyền hai cấp (tỉnh/thành phố và xã/phường/thị trấn) đã được triển khai, thay cho ba cấp như trước đây. Mô hình này giúp giảm bớt cấp trung gian, thu gọn đầu mối, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân bổ nguồn lực và điều hành phát triển vùng được thông suốt, tập trung và linh hoạt hơn. Theo quy hoạch tổng thể quốc gia, cả nước được chia thành sáu vùng kinh tế - xã hội, mỗi vùng có đặc điểm riêng về vị trí, tiềm năng và thế mạnh, được định hướng phát triển phù hợp với lợi thế đặc thù. Đây là bước đi chiến lược nhằm tạo sự cân bằng trong phân bổ nguồn lực, đồng thời khuyến khích các vùng phát triển theo hướng liên kết, bổ trợ lẫn nhau.

Tiến sĩ Lê Văn Hùng cho rằng, chính sách phát triển vùng trong kỷ nguyên mới cần tập trung vào một số trọng tâm. Trước hết, phải khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế về tự nhiên, vị trí địa lý và nguồn nhân lực của từng khu vực. Các vùng cần tăng cường liên kết nội vùng và liên vùng, tham gia sâu vào chuỗi giá trị để nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh. Song song với đó là bảo đảm phát triển bền vững, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường; việc sử dụng hiệu quả tài nguyên, kiểm soát ô nhiễm và chủ động ứng phó biến đổi khí hậu phải trở thành nguyên tắc xuyên suốt.

Tiến sĩ Lê Văn Hùng nhấn mạnh, cải cách thể chế và nâng cao năng lực quản trị vùng là yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi một cơ chế điều phối đủ mạnh để các địa phương hợp tác hiệu quả, tránh phát triển cục bộ hoặc chồng chéo. Cùng với đó, cần xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát huy vai trò của doanh nghiệp trong phát triển kinh tế vùng. Ngoài ra, đầu tư hạ tầng phải đi trước một bước, nhất là hệ thống giao thông kết nối liên vùng, hạ tầng năng lượng, logistics và công nghệ thông tin. Việc hình thành các hành lang kinh tế, vành đai công nghiệp và đô thị hiện đại gắn kết chặt chẽ với nông thôn sẽ tạo động lực mới cho tăng trưởng, đồng thời thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực.

Những định hướng và giải pháp này nếu được thực hiện đồng bộ sẽ giúp phát triển vùng trở thành động lực chủ yếu để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Đây cũng là nền tảng để bảo đảm sự cân đối trong phát triển, thúc đẩy gắn kết quốc gia và hướng tới mục tiêu thịnh vượng chung.

*Phát triển kinh tế Nam Bộ gắn liền với mục tiêu xanh và bền vững

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Tuấn Hưng, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, khu vực Nam Bộ có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Với lợi thế địa lý chiến lược, hệ thống sông ngòi, đất đai màu mỡ và nguồn nhân lực năng động, Nam Bộ từ lâu đã trở thành trung tâm sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ hàng đầu. Đồng bằng sông Cửu Long giữ vai trò chủ lực trong sản xuất và xuất khẩu nông sản, còn Đông Nam Bộ là đầu tàu công nghiệp, thương mại và tài chính.

Nam Bộ hiện giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thành phố Hồ Chí Minh được coi là đầu tàu kinh tế lớn nhất, đồng thời là trung tâm khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và giao thương quốc tế. Khu vực này hội tụ nhiều tiềm năng, tạo điều kiện để tiếp tục vươn lên mạnh mẽ trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

Tuy vậy, Nam Bộ đang phải đối diện với nhiều thách thức. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xâm nhập mặn tác động trực tiếp đến Đồng bằng sông Cửu Long, đe dọa sinh kế hàng triệu nông dân. Quá trình đô thị hóa nhanh tạo áp lực lớn lên hạ tầng và môi trường. Khoảng cách phát triển giữa các địa phương trong vùng còn đáng kể, chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển mới, trong khi cơ sở hạ tầng liên kết vùng chưa đồng bộ.

Phó Giáo sư Vũ Tuấn Hưng cho rằng, để Nam Bộ phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới, cần tập trung vào một số nhóm giải pháp then chốt. Trước hết, hạ tầng chiến lược phải được ưu tiên đầu tư. Hệ thống giao thông liên vùng, bao gồm đường bộ, đường thủy, đường sắt và hàng không, cần được quy hoạch đồng bộ để giảm chi phí logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo thuận lợi cho giao thương quốc tế.

Song song với đó, cơ cấu kinh tế của vùng phải được chuyển dịch theo hướng hiện đại. Đông Nam Bộ phát huy lợi thế công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao, tài chính, logistics và thương mại quốc tế. Trong khi đó, đồng bằng sông Cửu Long tập trung phát triển nông nghiệp công nghệ cao gắn với chế biến sâu, xây dựng thương hiệu nông sản và nâng cao giá trị gia tăng, qua đó thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu.

Một trọng tâm khác là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Các trường đại học và cơ sở đào tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh cùng các tỉnh lân cận cần gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp để đào tạo lực lượng lao động phù hợp với nhu cầu phát triển. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, hình thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo năng động.

Phát triển kinh tế của Nam Bộ cũng phải gắn liền với mục tiêu xanh và bền vững. Việc ứng phó biến đổi khí hậu, kiểm soát ô nhiễm và khai thác hợp lý tài nguyên là yêu cầu cấp bách. Đồng bằng sông Cửu Long có thể trở thành hình mẫu về nông nghiệp xanh, trong khi Đông Nam Bộ hướng tới phát triển công nghiệp sạch và dịch vụ thân thiện với môi trường. Điều này vừa giúp bảo vệ hệ sinh thái, vừa gia tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế.

Một giải pháp quan trọng khác là tăng cường liên kết vùng và mở rộng hợp tác quốc tế. Các địa phương trong vùng cần phối hợp chặt chẽ, xây dựng cơ chế điều phối thống nhất để tránh phát triển rời rạc. Đồng thời, Nam Bộ phải tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do nhằm mở rộng thị trường, tiếp thu công nghệ tiên tiến và thu hút dòng vốn chất lượng cao.

Phó Giáo sư Vũ Tuấn Hưng khẳng định, Nam Bộ đang đứng trước thời cơ lớn khi Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế toàn cầu. Nếu có chính sách phát triển vùng đồng bộ và phù hợp, khu vực này không chỉ tiếp tục giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước mà còn có thể vươn lên thành trung tâm kinh tế có tầm ảnh hưởng lớn trong khu vực và quốc tế./.

Lý Thanh Hương


Tác giả: Lý Thị Thanh Hương
Nguồn:TTXVN Copy link
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan
Đang chờ cập nhật
Tìm kiếm

Tìm kiếm