A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Tiềm năng dầu khí của Việt Nam còn rất lớn

Những năm qua, việc suy giảm tự nhiên các mỏ dầu khí đã làm nảy sinh nhiều luồng dư luận về sự tồn tại và phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam. Để có cái nhìn khách quan, phóng viên Tạp chí Năng lượng Mới đã phỏng vấn GS.TSKH Mai Thanh Tân - nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ - Địa chất Việt Nam về tiềm năng của dầu khí Việt Nam.

Tiềm năng dầu khí của Việt Nam còn rất lớn
Giáo sư, TSKH Mai Thanh Tân.

PV:Ông đánh giá thế nào về vị thế và vai trò của ngành Dầu khí Việt Nam?

GS Mai Thanh Tân: Chúng ta đã khai thác các mỏ dầu khí lớn trong hơn 30 năm qua. Đến nay, nhiều mỏ có chiều hướng cạn kiệt tự nhiên. Nhưng bên cạnh đó vẫn có những phát hiện mới về băng cháy (khí hydrat hình thành trong môi trường áp suất lớn, nhiệt độ thấp). Nguồn nguyên liệu này đang được coi là tương lai của ngành Dầu khí thế giới.

Những năm qua, xu hướng của thế giới là chuyển dịch năng lượng, nghĩa là những nguồn năng lượng hóa thạch sẽ được thay thế dần sang năng lượng sạch hơn như khí tự nhiên, năng lượng mặt trời, gió, thủy triều và cả địa nhiệt. Nhưng theo tôi, từ mong muốn đến hiện thực là cả một quãng thời gian có thể lên đến vài chục năm.

Trong tương lai gần, ngành Dầu khí vẫn đóng vai trò chủ đạo, quan trọng trong cung cấp nguồn năng lượng sơ cấp cho đời sống nhân dân, phát triển kinh tế đất nước, nên vẫn cần đẩy mạnh công tác thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí.

PV: Ông có thể khái quát về tiềm năng dầu khí của Việt Nam?

GS Mai Thanh Tân: Nhiều người vẫn nghĩ rằng ngành Dầu khí nước ta ra sức khai thác từ những năm 80, đến nay, với những dấu hiệu suy giảm liên tục thì liệu tiềm năng dầu khí có còn không?

Có thể khẳng định rằng, Việt Nam đang đứng thứ 5-6 châu Á về tiềm năng dầu khí. Chúng ta có nhiều bể, nhóm bể trầm tích lớn gồm Cửu Long, Sông Hồng, Phú Khanh, Nam Côn Sơn, Malay - Thổ Chu, Tư Chính - Vũng Mây, Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngoài vùng nội thủy, Việt Nam tuyên bố 12 hải lý lãnh hải, thêm 12 hải lý vùng tiếp giáp lãnh hải, 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và cuối cùng là thềm lục địa. Vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam chiếm diện tích khoảng 1.000.000 km² Biển Đông. Đó là chưa tính tới các vùng biển chồng lấn và các vùng biển tranh chấp. Trong những năm qua, rất nhiều tập đoàn dầu khí lớn đã phối hợp với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) thăm dò các bể trầm tích và các cấu tạo lớn (bẫy dầu khí), phát hiện nhiều đặc tính địa chất phức tạp, tìm ra nhiều mỏ dầu khí có giá trị lớn.

Đặc biệt, vào năm 1983, chúng ta tìm ra dầu trong tầng đá móng tại bể Cửu Long có trữ lượng dầu lớn, khai thác đạt giá trị cao đem lại lợi ích lớn cho Liên doanh Việt - Nga Vietsopetro tới ngày nay. Đáng chú ý, việc tìm ra dầu tại tầng đá móng đã lật đổ hoàn toàn các lý thuyết về thăm dò, khai thác dầu khí trên thế giới, bởi trước đó, không ai cho rằng có dầu khí trong tầng đá móng.

Hiện nay, đánh giá về tiềm năng dầu khí của Việt Nam vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng tôi cho rằng, dầu khí của chúng ta vẫn còn tiềm năng rất lớn. Dầu khí vẫn còn chưa được thăm dò sâu, kỹ tại các bẫy phi cấu tạo, các bẫy tại vùng nước sâu, xa bờ, riềm các bể trầm tích... Các bẫy phi cấu tạo này có thể tạo nên các cụm mỏ, mỏ nhỏ nằm xa bờ nên vẫn chưa được quan tâm thăm dò nhiều. Nhưng nếu có quyết tâm tập hợp tìm kiếm, thăm dò, khai thác thì chắc chắn trữ lượng dầu khí của Việt Nam sẽ rất lớn.

PV: Để tiếp tục đẩy mạnh và phát triển ngành Dầu khí Việt Nam, chúng ta cần phải làm gì, thưa ông?

GS Mai Thanh Tân: Hiện nay chúng ta đang chuyển sang giai đoạn mới trong thăm dò, khai thác dầu khí. Với các đối tượng mới là các bẫy phi cấu tạo, chúng ta phải có tư duy mới và các phương pháp mới trong tìm kiếm, thăm dò dầu khí. Ví dụ, trước đây, chúng ta nghĩ dầu khí chỉ có dưới đáy biển, nhưng giờ đây phải tìm cả khu vực trên đất liền (sông, hồ, vùng biển hồ), tìm kiếm tại các vùng nước sâu, trong các bẫy địa tầng phi truyền thống.

Tiềm năng dầu khí của Việt Nam còn rất lớn
Các bể trầm tích liên quan đến trữ lượng dầu khí của Việt Nam.

Về phương pháp tìm kiếm dầu khí, chúng ta cần tận dụng công nghệ tìm kiếm, thăm dò dầu khí hiện đại trên thế giới, tìm người tiếp nhận, ứng dụng công nghệ này vào thực tế. Vì chắc chắn rằng, với các đối tượng mới, nhỏ hơn, khó tìm hơn, cần phải giao đúng người, đúng nơi thì hiệu quả mới có thể cao được.

Trước đây, minh giải địa chấn cần phải cập nhật bổ sung phương pháp mới là “địa tầng phân tập” thay thế cho phương pháp phân chia địa tầng theo “thạch học”. Gần đây nhất, một số nhà khoa học địa chất đã sử dụng AI (trí tuệ nhân tạo) để cố gắng phân tích, định lượng các tầng địa chất theo phương pháp địa tầng phân tập. Phương pháp này cho thấy việc xác định tuổi của các tầng địa chất toàn diện hơn các phương pháp trước đây căn cứ trên thực tế hình thành các địa tầng. Từ đó, việc xác định các bẫy dầu khí sẽ chính xác, hiệu quả và tiết kiệm chi phí hơn rất nhiều.

Ngành Dầu khí có độ rủi ro cao, có ảnh hưởng lớn của địa chính trị, đặc biệt là giá trị kinh tế khổng lồ. Bởi vậy, tôi cho rằng, đây là thời điểm rất quan trọng, có khả năng quyết định tương lai của ngành Dầu khí Việt Nam. Hơn lúc nào hết Petrovietnam cần những người đứng đầu đủ dũng cảm, quyết đoán, người dầu khí cần đoàn kết một lòng, quyết tâm cao nhất để thúc đẩy phát triển ngành Dầu khí trong giai đoạn mới với mục tiêu tối thượng là đem lại lợi ích lớn nhất cho quốc gia, dân tộc.

PV: Trân trọng cảm ơn giáo sư!

Sách “Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam” viết: Trữ lượng dầu khí đã phát hiện mới chỉ chiếm 1/3 tổng tài nguyên dầu khí của Việt Nam. Để tìm kiếm phần trữ lượng chưa phát hiện, hiện Petrovietnam đang thăm dò xung quanh các mỏ đang khai thác. Đã có hàng loạt các phát hiện như Gấu Trắng, Thỏ Trắng, Mèo Trắng, Cá Tầm, Mèo Trắng Đông...

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan
Tìm kiếm

Tìm kiếm