A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đồng bào vùng cao đưa hoa hồi, trà hoa vàng vươn tầm giá trị mới

Giữ hồn núi rừng trong từng sản vật, đồng bào dân tộc miền núi biến hoa hồi, trà hoa vàng thành thương hiệu, nâng giá trị và sinh kế quê hương.

Giữ gìn văn hoá, mở đường thương hiệu 

Tại Hội chợ các sản phẩm OCOP xuất khẩu 2025 - Vietnam COCOPEX 2025 vừa qua, giữa hàng trăm gian hàng rực sắc màu, những sản phẩm đến từ vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ cuốn hút bởi hương vị đặc trưng của núi rừng mà còn bởi câu chuyện phía sau. Đó là hành trình bền bỉ gìn giữ bản sắc văn hoá, vượt qua những rào cản về vốn, công nghệ, thị trường để xây dựng thương hiệu và vươn tới những thị trường mới.

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, nhiều hợp tác xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số cho rằng, nếu không thay đổi cách sản xuất và tiêu thụ, sản phẩm vùng cao sẽ mãi luẩn quẩn trong vòng “được mùa mất giá”. Nhưng với sự hỗ trợ từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhiều hợp tác xã, doanh nghiệp đã tìm được con đường mới: chế biến sâu, xây dựng thương hiệu và xúc tiến thị trường. Trong đó, các sản phẩm từ trà hoa hồi và trà hoa vàng là hai điển hình.

Bà Trần Thị Thu Lan, Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất Dịch vụ Nông lâm sản Bản Quyền

Bà Trần Thị Thu Lan, Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất Dịch vụ Nông lâm sản Bản Quyền

Ở tỉnh Lạng Sơn, cây hồi từ lâu đã là cây trồng chủ lực của đồng bào Tày, Nùng. Cả bản làng quen với mùi hương nồng ấm mỗi độ thu về. Nhưng trước đây, phần lớn hoa hồi chỉ bán tươi cho thương lái, giá cả bấp bênh, phụ thuộc vào thương lượng, có vụ rớt giá chỉ còn vài chục nghìn đồng/kg, khiến bà con lao đao. Việc thiếu cơ sở chế biến và bảo quản khiến sản phẩm khó giữ được chất lượng, không thể tiếp cận thị trường cao cấp.

Bước ngoặt đến khi Hợp tác xã Sản xuất Dịch vụ Nông lâm sản Bản Quyền được hỗ trợ máy sấy, dây chuyền đóng gói, tem truy xuất nguồn gốc. Từ đây, trà túi lọc Lan Ngọc ra đời, kết hợp bí quyết chế biến truyền thống với tiêu chuẩn đóng gói hiện đại.

Chia sẻ tại hội chợ, bà Trần Thị Thu Lan, Giám đốc HTX nói: “Trước đây, bà con chỉ biết hái hồi rồi bán cho thương lái, lo nhất là khi giá xuống thấp, hàng tồn đọng. Giờ có sản phẩm chế biến sâu, giá trị tăng gấp nhiều lần, bà con yên tâm hơn vì biết chắc sẽ được thu mua với giá ổn định”.

Không chỉ giải quyết đầu ra, Lan Ngọc còn tạo công ăn việc làm quanh năm cho hàng chục phụ nữ Tày, Nùng tại địa phương. Họ không chỉ là người làm công, mà còn trở thành “người kể chuyện thương hiệu”, đưa hương hồi Lạng Sơn đến các hội chợ OCOP, hội nghị kết nối giao thương, phiên chợ vùng cao và các sàn thương mại điện tử. 

Nếu như hương hồi Lan Ngọc của Lạng Sơn níu chân khách bằng vị thơm ấm nồng đặc trưng của núi rừng Đông Bắc, thì ngay cạnh đó, tại gian hàng của trà hoa vàng Quy Hoa (Quảng Ninh), sắc vàng óng ánh và hương thơm thanh khiết lại khiến nhiều người dừng bước thật lâu. Là loài dược liệu quý gắn bó với đồng bào vùng đồi rừng Quảng Ninh, trà hoa vàng từng chỉ được bán tươi, tiêu thụ hẹp trong phạm vi địa phương. Giờ đây, nhờ được đầu tư bài bản về vùng nguyên liệu, kỹ thuật chế biến và chiến lược xúc tiến thương mại, sản phẩm đã vươn tầm thương hiệu, hướng đến cả thị trường quốc tế.

Ông Phạm Văn Gia, Giám đốc Kinh doanh Công ty TNHH Quy Hoa chia sẻ tại hội chợ: “Trước kia, trà hoa vàng thu hái xong phải bán ngay, nếu không sẽ héo và mất giá trị. Đầu ra lại hẹp, chủ yếu dựa vào thương lái, nên bà con chưa mạnh dạn mở rộng diện tích. Chúng tôi xác định muốn thay đổi, phải bắt đầu từ quy hoạch vùng nguyên liệu, chuẩn hóa kỹ thuật, áp dụng công nghệ chế biến hiện đại và mở rộng thị trường tiêu thụ”.

Sản phẩm trà hoa vàng của Công ty TNHH Quy Hoa. Ảnh: Hà Minh

Sản phẩm trà hoa vàng của Công ty TNHH Quy Hoa. Ảnh: Hà Minh

Quy Hoa đã xây dựng vùng nguyên liệu hữu cơ ngay dưới tán rừng, vừa đảm bảo chất lượng, vừa gìn giữ hệ sinh thái bản địa. Toàn bộ quy trình chế biến áp dụng công nghệ sấy đông lạnh thăng hoa, giúp giữ trọn 99% dưỡng chất, màu sắc và hương vị tự nhiên của hoa. Sản phẩm đã đạt chuẩn OCOP 5 sao, trở thành mặt hàng chủ lực của Quảng Ninh trong phân khúc cao cấp.

Không chỉ dừng ở chất lượng, doanh nghiệp tích cực đưa sản phẩm tham gia các hội chợ đặc sản vùng miền, hội nghị kết nối cung cầu, đồng thời ký kết hợp tác với hệ thống phân phối lớn trong nước. Đặc biệt, lô hàng đầu tiên đang chuẩn bị xuất khẩu sang Nhật Bản và châu Âu - thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn khắt khe.

Quan trọng hơn, mô hình liên kết này đã giúp hàng chục hộ dân tại vùng đồi rừng Quảng Ninh yên tâm gắn bó với cây trà hoa vàng. Bà con được bao tiêu sản phẩm với giá cao hơn thị trường, có thu nhập ổn định, và không ít thanh niên đã quyết định ở lại quê hương, vừa làm kinh tế, vừa giữ gìn màu xanh rừng núi.

Xúc tiến đầu ra cho sản phẩm của đồng bào dân tộc thiểu số

Cả Lan Ngọc và Quy Hoa đều chứng minh rằng, khâu xúc tiến đầu ra là chìa khoá sống còn. Việc thường xuyên tham gia hội chợ OCOP, hội nghị kết nối cung cầu đã giúp sản phẩm tiếp cận trực tiếp hệ thống siêu thị, nhà hàng, điểm du lịch. Đây không chỉ là dịp bán hàng, mà còn là cơ hội xây dựng hình ảnh thương hiệu, ký kết hợp đồng tiêu thụ dài hạn.

Đồng bào vùng dân tộc thiểu số biến trà hoa vàng thành thương hiệu. Ảnh: Hà Minh

Đồng bào vùng dân tộc thiểu số biến trà hoa vàng thành thương hiệu. Ảnh: Hà Minh

Không dừng lại ở xúc tiến truyền thống, các HTX còn mạnh dạn khai thác thương mại điện tử. Nhờ đó, sản phẩm có thể đến tay người tiêu dùng trên cả nước, tiếp cận nhóm khách hàng trẻ và cộng đồng Việt kiều, duy trì sức tiêu thụ quanh năm. Bí quyết để tạo sự khác biệt còn nằm ở câu chuyện thương hiệu gắn với văn hoá bản địa. Khi khách hàng hiểu rằng gói trà họ mua là kết quả từ bàn tay của những người phụ nữ Tày, Nùng hay người nông dân vùng cao, và là kết tinh từ tri thức, phong tục của cộng đồng, giá trị cảm xúc sẽ song hành với giá trị kinh tế.

Sự thay đổi ở trà hoa hồi Lan Ngọc và trà hoa vàng Quy Hoa không chỉ là câu chuyện của hai sản phẩm, mà là minh chứng cho hướng đi đúng của vùng đồng bào dân tộc thiểu số: kết hợp gìn giữ bản sắc với đổi mới sản xuất, chế biến sâu và mở rộng thị trường. Khi chuỗi sản xuất, chế biến và tiêu thụ được xây dựng chặt chẽ, sản phẩm vùng cao hoàn toàn có thể vươn ra thị trường quốc tế, mang về thu nhập ổn định, giữ chân người ở lại bản và gìn giữ văn hoá cho mai sau.

Khi câu chuyện văn hoá được gìn giữ và thương hiệu được định hình, sản vật bản địa không chỉ ở lại với bản làng, mà còn có thể vươn xa, mang theo niềm tự hào và sinh kế vững chắc cho cộng đồng.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan
Đang chờ cập nhật
Tìm kiếm

Tìm kiếm