Phát triển thị trường carbon không chỉ ở vấn đề thể chế
Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - đoàn TP. Hải Phòng cho rằng, phát triển thị trường carbon không chỉ là vấn đề thể chế, mà còn là vấn đề nhận thức xã hội.
Truyền thông là “mũi đột phá mềm”
Sáng 29/10, tiếp tục Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội thảo luận ở hội trường về: Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026; kết quả thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025: Phát triển kinh tế - xã hội; cơ cấu lại nền kinh tế...

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Việt Nga - đoàn TP. Hải Phòng
Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - đoàn TP. Hải Phòng cơ bản tán thành nội dung báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2025 và dự kiến kế hoạch năm 2026.
Theo đại biểu, năm 2025, mặc dù kinh tế tăng trưởng khá song tình trạng ô nhiễm môi trường, sạt lở, xâm nhập mặn, thiên tai cực đoan vẫn diễn biến phức tạp, gây thiệt hại nặng nề cả về người và tài sản.
Biến đổi khí hậu đã trở thành một nguy cơ hiện hữu, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển bền vững, đòi hỏi chúng ta phải hành động quyết liệt và thực chất hơn.
Nêu ý kiến về việc phát triển thị trường carbon, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga nhấn mạnh, đây là công cụ tất yếu để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Chính phủ đã xác định trong báo cáo: Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, thúc đẩy chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí nhà kính. "Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc xây dựng thị trường carbon trong nước vẫn còn chậm so với lộ trình đề ra" - đại biểu nói.
Hiện Việt Nam đang ở giai đoạn chuẩn bị vận hành thử nghiệm sàn giao dịch carbon (2025-2027), với hơn 1.900 cơ sở phát thải lớn đã được thống kê. Song, mới chỉ khoảng 20% doanh nghiệp có báo cáo kiểm kê phát thải hoàn chỉnh, số còn lại chưa có năng lực kỹ thuật hoặc chưa thiết lập hệ thống theo dõi, kiểm đếm và xác nhận lượng phát thải thực tế. Theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga, đây chính là điểm nghẽn lớn nhất, khiến thị trường carbon chưa thể vận hành mạnh mẽ và trở thành công cụ kinh tế hiệu quả trong giảm phát thải.
Nếu không sớm hình thành thị trường carbon hiệu quả, doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU, Nhật, Mỹ sẽ phải chịu “thuế carbon biên giới (CBAM)”, làm giảm năng lực cạnh tranh hàng hóa quốc gia.
Nữ đại biểu Quốc hội đoàn Hải Phòng cho rằng, một thực tế cần được nhìn nhận là khái niệm “thị trường carbon” vẫn còn rất xa lạ với phần lớn người dân và doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ “tín chỉ carbon là gì”, “mua bán tín chỉ diễn ra thế nào”, và “doanh nghiệp được lợi gì khi giảm phát thải”.
Không ít người dân vẫn coi “biến đổi khí hậu là câu chuyện ở đâu đó xa xôi”, chưa nhận ra mối liên hệ giữa việc sử dụng điện, xăng dầu, hay tiêu dùng hàng hóa hàng ngày với lượng khí phát thải toàn cầu.
Khi xã hội chưa hiểu, doanh nghiệp chưa quan tâm, thì dù có hành lang pháp lý, thị trường cũng chỉ tồn tại hình thức, thiếu thanh khoản, thiếu động lực phát triển. Bởi vậy, phát triển thị trường carbon không chỉ là vấn đề thể chế, mà còn là vấn đề nhận thức xã hội.
Từ đó, đại biểu kiến nghị Chính phủ chỉ đạo một chương trình truyền thông quốc gia về “hiểu đúng và hành động vì thị trường carbon”, kết hợp đưa kiến thức cơ bản về phát thải, tín chỉ carbon, tiêu dùng xanh vào trường học, truyền hình, nền tảng số và các khóa tập huấn doanh nghiệp.
Khi người dân hiểu, doanh nghiệp hiểu, chính quyền các cấp hiểu, thì thị trường carbon mới thực sự vận hành hiệu quả. Để phát triển thực chất thị trường carbon, đại biểu đề nghị tập trung ba nhóm giải pháp chính.
Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý về thị trường các-bon, quy định rõ cơ chế giao dịch, đấu giá, giám sát, xử lý vi phạm. Các Nghị định hiện có như: Nghị định 06/2022, Nghị định 119/2025 có những nội dung mới chỉ dừng ở mức khung, chưa cụ thể hoá các quy trình kỹ thuật, định mức, định lượng... Vì vậy, cần bổ sung thêm các thông tư hướng dẫn và kế hoạch cụ thể.
Thứ hai, xây dựng hệ thống theo dõi, kiểm đếm và xác nhận lượng phát thải thực tế minh bạch, độc lập cấp quốc gia, thống nhất giữa các bộ, ngành và doanh nghiệp phát thải lớn.
Thứ ba, đẩy mạnh truyền thông đại chúng và giáo dục cộng đồng, coi truyền thông là “mũi đột phá mềm” trong thực hiện mục tiêu giảm phát thải, khơi dậy tinh thần chủ động và sáng tạo từ mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp.
Đề nghị thành lập lực lượng cứu trợ nhân dân
Cũng tại phiên họp, đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga đề nghị thành lập lực lượng cứu trợ nhân dân, đáp ứng yêu cầu ứng phó thiên tai trong kỷ nguyên biến đổi khí hậu.
Báo cáo của Chính phủ cho biết, chỉ trong năm 2025, cả nước đã xảy ra 16 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, hơn 200 vụ sạt lở đất, hàng nghìn ha hoa màu bị thiệt hại do ngập úng, lũ quét, triều cường.
Thiệt hại này không chỉ phản ánh mức độ khốc liệt của biến đổi khí hậu, mà còn cho thấy mặt còn hạn chế trong khả năng ứng cứu tại chỗ.
Hiện nay, Việt Nam đã có Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn cấp xã, nhưng lực lượng này mỏng, hoạt động kiêm nhiệm, thiếu chuyên môn và trang bị, chưa thực sự đáp ứng tốt yêu cầu ứng cứu nhanh trong điều kiện thiên tai ngày càng dữ dội, bất thường.
Đại biểu cho rằng, đã đến lúc cần thành lập “lực lượng cứu trợ nhân dân” - một mạng lưới cứu hộ cơ sở, được huấn luyện và trang bị kỹ năng cơ bản, hoạt động song hành với lực lượng chuyên trách khi có thiên tai xảy ra.
Đây không chỉ là lực lượng tình nguyện, mà còn là thành tố quan trọng trong chiến lược phòng thủ dân sự và thích ứng biến đổi khí hậu quốc gia.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Nhật Bản sau thảm họa kép năm 2011 đã hình thành mạng lưới BOSAI - các đội cứu hộ cộng đồng, nay phủ 80% địa phương; Philippines có lực lượng tương tự ở từng làng, được huấn luyện sơ cấp cứu, cứu hộ, hướng dẫn sơ tán.
Nhờ đó, tỷ lệ thương vong do thiên tai giảm mạnh, cộng đồng chủ động, không còn tâm lý ỷ lại hay bị động. "Việt Nam hoàn toàn có thể học tập mô hình này, nhất là khi thiên tai xảy ra ngày càng nhiều, mức độ ngày càng khốc liệt" - đại biểu nói.
Đồng thời, đại biểu đề xuất thành lập đội cứu trợ nhân dân ở cấp xã, phường, thôn, tổ dân phố, trực thuộc Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai địa phương. Cùng với đó, tổ chức huấn luyện định kỳ về kỹ năng cứu nạn, sơ cấp cứu, thoát hiểm; trang bị tối thiểu áo phao, thuyền hơi, bộ cứu hộ, bộ y tế, bộ đàm liên lạc. Nguồn kinh phí có thể từ Quỹ phòng chống thiên tai, ngân sách địa phương, kết hợp xã hội hóa và hợp tác quốc tế.
"Lực lượng này sẽ là “tuyến đầu cứu người, cứu mình”, giảm thiểu đáng kể thương vong, thiệt hại, đồng thời lan tỏa tinh thần đoàn kết, tương trợ, chủ động ứng phó với rủi ro thiên tai" - đại biểu nhấn mạnh.
Theo đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga - đoàn TP. Hải Phòng, nếu không sớm hình thành thị trường carbon hiệu quả, doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU, Nhật, Mỹ sẽ phải chịu “thuế carbon biên giới (CBAM)”, làm giảm năng lực cạnh tranh hàng hóa quốc gia.






